Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh
Mục lục
Tòa thánh Cao Đài là biểu tượng linh thiêng và hùng vĩ của Tỉnh Tây Ninh. Cùng tìm hiểu những điều thú vị xoay quanh Tòa thánh Cao Đài nhé.
1. Giới thiệu Tòa thánh Cao Đài
1.1. Sơ lược lịch sử Tòa thánh Cao Đài
Tòa thánh Cao Đài tọa lạc tại đường Phạm Hộ Pháp, Hòa Thành, Tây Ninh. Đây là công trình kiến trúc độc đáo nhất và đồ sộ nhất của đạo Cao Đài.
Tòa thánh Cao Đài được khởi công xây dựng vào khoảng năm 1933 (có tài liệu ghi năm 1931), chính thức hoàn thành vào năm 1955.
Tổng thể khuôn viên Tòa thánh Cao Đài
Ban đầu, nơi đặt thánh thất tạm là Thiền Lâm tự ở Gò Kén, Tây Ninh, nhưng sau đó bị Hòa thượng trụ trì là sư Giác Hải (Như Nhãn/1864-1938) đòi lại vì chịu áp lực của người Pháp.
Trong thời gian Hộ pháp Phạm Công Tắc bị người Pháp bắt và đày đi Madagascar (1941-1946), Tòa thánh bị chiếm đóng nên việc xây dựng cũng bị trì hoãn. Khi Hộ Pháp Phạm Công Tắc được trở về và nắm quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài, ông mới lên kế hoạch xây dựng đến khi hoàn thiện. Ông được xem là người có công rất lớn trong việc xây dựng Tòa thánh Cao Đài.
1.2. Kiến trúc Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh
Theo tài liệu của đạo Cao Đài, Tòa thánh Tây Ninh tượng trưng cho nơi ngự của Trời (gọi là Bạch Ngọc Kinh). Mô hình bên trong cũng như bên ngoài các cơ sở của Tòa thánh được mô phỏng theo cõi thiên đình và được lấy kiểu mẫu qua việc đàn cơ.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh được xem là sự tổng hợp kiến trúc của các tôn giáo lớn trên thế giới.
1.2.1. Bên ngoài
Tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 1 km², ngôi Đền thánh có chiều dài 97,5m, rộng 22m với 12 cửa. Các cửa đều được chạm khắc hình Tứ linh (long, lân, quy, phụng) và hoa sen. Chánh môn là cửa lớn nhất được trang trí khác biệt mang hình lưỡng long tranh châu. Ngoài ra, khuôn viên nổi bật nhất là hai lầu chuông, trống cao 25m, chiều cao hai tòa tháp khoảng 36m. Bên ngoài Tòa thánh có kiến trúc khá giống với Nhà thờ của Đạo Công giáo.
Cửa Chánh Môn
Trong khuôn viên Tòa thánh còn có các công trình kiến trúc tôn giáo lớn nhỏ như: Báo Ân Từ, Các Bửu Tháp của các chức sắc cao trong Đạo Cao Đài.
Báo Ân Từ: là tòa nhà lớn để thờ các bậc tiền bối có đại công với Đạo và các bậc vĩ nhân có đại công giúp nền văn minh của nhân loại tiến hóa lên cao, và để nhơn sanh tỏ lòng biết ơn các bậc ấy. Hiện được dùng làm Đền Thờ Đức Phật Mẫu.
Báo Ân Từ
Khuôn viên còn có 3 Bửu tháp của Hộ pháp Phạm Công Tắc, Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư và Thượng sanh Cao Hoài Sang. Những nơi này được thiết kế rất độc đáo.
Một trong ba Bửu tháp tại khuôn viên Tòa thánh Cao Đài
1.2.2. Phía trước
Phía trước tòa thánh, trên cao có hình Thiên Nhãn (một con mắt tỏa hào quang), đây là biểu tượng của đạo Cao Đài. Trên nóc có Nghinh Phong Đài, (có tượng kỳ lân đứng trên quả địa cầu). Trên nóc phía sau có Bát Quái Đài (có tượng các thiên tướng).
(4)
Mặt tiền Tòa thánh Cao Đài
Hiệp Liên Đài
Trước cửa Tòa thánh, Hiệp Liên Đài gồm Lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài, bên trái) và Lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài, bên phải).
Lầu chuông được đắp tượng Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung mặc Đại phục đứng trên quả địa cầu, tay phải cầm quyển Thiên Thơ. Trong lầu có treo một cái chuông lớn gọi là Bạch Ngọc Chung. Lầu trống được đắp tượng Nữ Đầu sư Hương Thanh mặc Đại phục đứng trên quả địa cầu, tay phải cầm nhành bông, tay trái xách giỏ hoa. Trong lầu có treo một cái trống lớn gọi là Lôi Âm Cổ.
1.2.3. Mái (Nóc) Tòa thánh
Đứng trước Tòa thánh, nhìn lên nóc sẽ thấy tượng Phật Di Lặc được đặt chính giữa hai tháp chuông. Trên nóc có Nghinh Phong Đài (có tượng kỳ lân đứng trên quả địa cầu), nóc phía sau có Bát Quái Đài (có tượng các thiên tướng).
Nghinh Phong Đài
Đài ở khoảng giữa Tòa thánh, cao 17m, phần dưới hình vuông, phần trên hình vòm mang nửa quả địa cầu, trên có tượng Long Mã mang Hà Đồ chạy về hướng Tây, quay đầu về hướng Đông, hàm nghĩa “Đạo xuất phát từ phương Đông, truyền qua phương Tây, rồi cũng trở về phương Đông”.
Nghinh Phong Đài
Bát Quái Đài
Ở phía cuối của Tòa thánh, phần đuôi của Long Mã hướng thẳng về phía đông. Mái của Bát Quái Đài được sơn màu vàng.
Bát Quái Đài
1.2.4. Cửa vào
Cửa Chánh Môn là cửa lớn nhất, thường đóng (chỉ mở vào các dịp đón tiếp nguyên thủ các quốc gia, lãnh đạo các Tôn giáo).
1.2.5. Bên trong
Hai hàng cột trụ rồng được trang trí, chạm khắc tinh xảo. Bao gồm 10 cặp cột trụ, cặp trụ chính giữa là Giảng Đài, nơi giáo chủ đứng để giảng đạo cho các tín đồ.
Nền Tòa thánh có 9 cấp gọi là “Cửu phẩm thần tiên”, mỗi cấp là một phẩm cấp. Phía trước gian Chánh Điện có 7 ghế chia làm tam cấp: Cao nhất là ghế của Giáo Tông, tiếp theo là 3 ghế của 3 vị Chưởng Pháp và cuối cùng là 3 ghế của 3 vị đầu sư.
Chánh điện có 8 cột trụ rồng xếp thành vòng tròn. Giữa là quả địa cầu lớn tượng trưng cho vũ trụ với Thiên Nhãn nằm phía trước, xung quanh là 3.072 vì sao, 72 quả địa cầu và 3.000 thế giới. Trên thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Tiên Lý Thái Bạch (hiện nay là Giáo Tông thiêng liêng của Đạo Cao Đài).
Trang trí hình rồng tinh xảo bên trong Tòa thánh
Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về Tòa Thánh với 1 "hướng dẫn viên online", hãy đặt ngay tour du lịch tự túc với OnTripquest nhé! Giá tour chỉ có 150K. Đặt ngay tại đây:

Bí mật Tòa thánh Tây Ninh
- Viếng thăm một kỳ quan kiến trúc của Việt Nam và là một công trình đáng kinh ngạc của châu Á!
- Khám phá những công trình trọng điểm và đẹp nhất trong Vùng Đất Thánh và giải mã những bí ẩn sau mỗi vật thể.
- Tìm hiểu vì sao đạo Cao Đài - một tôn giáo xuất phát từ Việt Nam lại có thể thu hút đến hàng triệu tín đồ trên khắp thế giới.
- Cảm nhận những nguồn năng lượng tích cực bên trong Tòa Thánh và nạp đầy năng lượng cho bản thân.
2. Đôi nét về Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
Ông Phạm Công Tắc (1890 - 1959), một trong những người tham gia sáng lập đạo Cao Đài năm 1926 tại Việt Nam. Năm 1927, ông được thọ phong làm Đức Hộ pháp - lãnh đạo tối cao của đạo Cao Đài và được đánh giá có công lớn nhất trong việc xây dựng Tòa thánh Cao Đài.
Năm 1956, do mâu thuẫn với chính quyền Ngô Đình Diệm, Hộ pháp Phạm Công Tắc sang Campuchia, sống và truyền đạo Cao Đài tại Phnôm Pênh cho đến ngày viên tịch (17/5/1959). Từ đó đến nay, di cốt Hộ pháp Phạm Công Tắc vẫn được các tín đồ Cao Đài lưu giữ tại Thánh thất Cao Đài Phnôm Pênh.
Ngày 30/11/2006, liên đài Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc được đại diện Hội đồng Chưởng quản cùng các tín đồ Cao Đài đưa về Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh bằng đường bộ qua cửa khẩu Mộc Bài.
Tượng Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc
3. Đôi nét về Đạo Cao Đài
“Cao” là ở trên cao, cũng có nghĩa là tài giỏi. “Đài” là cái đài, cái tháp.
Trước tiên, Cao Đài có nghĩa là một cái đài cao đặt ở cõi thiêng liêng, nơi Đấng Thượng đế Chí tôn ngự mỗi khi Ngài chủ trì Đại hội Thiên cung. Cao Đài mang ý nghĩa tối thượng, trọng đại hơn mọi sự vì đó là danh xưng của chính Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn. Ngài là Thầy, là Đấng Tạo hóa cõi vũ trụ, trong đó chúng ta cùng với muôn loài muôn vật đang sống. Ngài là Đấng Tạo dựng các vị giáo chủ, cũng là vị hiền phụ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật khắp Càn khôn Vũ trụ.
Sau cùng, Cao Đài còn là tên gọi được Đấng Chí tôn đặt cho một tôn giáo do chính Ngài đích thân thành lập và trực tiếp ban thánh ý mọi mặt, đó là: Cao Đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ.
3.1. Lịch sử Đạo Cao Đài
Lịch sử xuất hiện của đạo Cao Đài gắn liền với tên tuổi của Đức Ngô Văn Chiêu, người về sau được cung kính gọi là Ngài Ngô Minh Chiêu (1878-1932), có cha là ông Ngô Văn Xuân xuất thân là một dòng dõi làm quan ở Huế. Đức Ngô Văn Chiêu có tiếng là người trầm tĩnh, thanh cao, liêm khiết nên rất được người đời mến phục.
- Thập niên 1910, tại Tòa Hành chánh tỉnh Tân An, phong trào cầu cơ thỉnh Tiên nổi lên, Đức Ngô Văn Chiêu và một số người nhanh chóng hưởng ứng phong trào.
- Năm 1920, trong một lần cầu cơ, Đức Ngô Văn Chiêu được một vị Tiên Ông nhập cơ.
- Tháng 10/1920, Ông ra đảo Phú Quốc làm quận trưởng bốn năm. Thời gian này, Ông thường lên núi Đơn Dương cầu cơ thỉnh Tiên. Được một vị Tiên Ông giáng cơ yêu cầu rằng nếu chịu ăn chay liên tục suốt mười ngày, trường trai suốt ba năm, thì sẽ được thu nhận Ngài làm đệ tử.
Ngày 22 tháng Giêng, 1926, Đức Chí tôn dạy nhóm khai mở đạo. Theo tài liệu ghi nhận, 12 người đệ tử đầu tiên là:
1/Ngô Văn Chiêu 2/ Vương Quan Kỳ 3/ Lê Văn Trung 4/ Nguyễn Văn Hoài 5/ Đoàn Văn Bản 6/ Cao Hoài Sang |
7/ Lý Trọng Quý 8/ Lê Văn Giảng 9/ Nguyễn Trung Hậu 10/ Trương Hữu Đức 11/ Phạm Công Tắc 12/ Cao Quỳnh Cư |
Các vị về sau là Ngài Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951); Ngài Lê Bá Trang (1879-1936); Ngài Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950),... gia nhập và đi truyền đạo.
3.2. Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Đạo Cao Đài khẳng định rằng Đạo là do chính Đức Thượng đế, Đấng Chí tôn, đích thân sáng lập và làm giáo chủ. Giáo lý của đạo Cao Đài là do chính Đức Thượng đế trực tiếp truyền dạy qua sự thường xuyên tiếp xúc bằng đàn cơ giữa Ngài và quý chức sắc thượng phẩm trong Đạo.
“Đại” là vĩ đại, lớn rộng; “Đạo” là con đường. “Cao Đài Đại đạo” là con đường tốt đẹp và rộng rãi, dẫn dắt con người học hỏi, lập công quả và tu tập, nhằm mục đích đi thẳng tới chân lý – một chân lý hằng hữu và bất biến – đó là Thượng đế. Bằng quá trình tu luyện theo đạo Cao Đài, tín đồ tuần tự đạt tới năm nấc thang tiến hóa, qua các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, để cuối cùng, đạt đến sự hiệp nhất vào Đấng Cao Đài, tức là Ngọc hoàng Thượng Đế, Đấng Chí tôn.
“Phổ” nghĩa là phổ quát, rộng lớn, phô bày ra cho hết thảy mọi người ở khắp mọi nơi. “Độ” nghĩa là cứu độ, cứu giúp. Do đó, Cao Đài Đại Đạo muốn phổ độ chúng sinh thì phải mở ra mối Đạo lớn cho người đời tu hành.
“Cao Đài Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ” có nghĩa là cứu độ, cứu giúp chúng sinh trong thời kỳ hiện nay, tức là thời kỳ cuối trong ba nguyên của loài người.
Theo sách “Pháp Chánh Truyền”, ba nguyên đó là:
Thượng nguyên hay là Nguyên Thượng đức, cũng là Nguyên Tạo hóa. Trong nguyên này, Đấng Chí tôn gầy dựng Càn khôn Vũ trụ. Thời thái cổ, loài người tính tình hồn nhiên, mộc mạc lương thiện, sống theo đạo trời mà hòa hợp thân thiết yêu thương nhau. Con người hấp thụ khí thiên nhiên nên tâm hồn thanh thoát, thể xác an nhàn, vui say mùi đạo, tiếp nhân xử thế cực kỳ đạo đức.
Trung nguyên hay là Nguyên Thượng lực, cũng là Nguyên Tranh đấu. Trong nguyên này loài người thâm nhiễm nhiều thói hư tật xấu, lòng người bất nhất, nên càng ngày càng xa khuất điểm thiên lương, sống bức hiếp lẫn nhau, sinh ra chiến tranh, chèn ép và bóc lột nhau. Người đời không còn kể gì tới tình đồng loại đồng chủng đồng bào mà chỉ một lòng một dạ trông cậy vào sức lực để tranh đấu với nhau.
Hạ nguyên hay Đời Mạt kiếp, là Nguyên Điêu tàn, cũng là Nguyên Tái tạo. Trong nguyên này, cuộc đấu tranh giữa người đời chuyển qua mãnh liệt, tàn khốc, hiểm độc phi thường. Càng tranh đấu càng tiến hóa, càng ác liệt, đưa tới điêu tàn hủy diệt. Nhưng đặc biệt là hễ loạn thì phải tới trị, vòng thì tất phải hưng, nên nguyên tiêu diệt này tất nhiên sẽ chuyển thành nguyên bảo tồn; lúc ấy đạo đức được phục hưng, để sắp sửa tái tạo trở lại như thời thái cổ. Vậy loài người sắp bước qua đệ tam kỳ này là thời kỳ qui nhất thống, đại luân hồi của Trời Đất. Ngày nay loài người đã trải qua đúng con số do Đấng Tạo hóa đã định là mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm (129,600 năm), nên đã tới thời kỳ tạo thiên lập địa một lần nữa.
“Tam Kỳ Phổ Độ”
Nhất kỳ Phổ độ: vào thời thái cổ của loài người, các tôn giáo như Đạo Phật với Đức Nhiên Đăng Cổ Phật; Đạo Tiên với Đức Thái Thượng Đạo tổ; Đạo Bà-La-Môn; Đạo Do Thái với Môsê; Đạo Nho với Phục Hy,... Phổ độ Nhất kỳ này do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chủ trì Liên Trì Hội.
Nhị Kỳ Phổ độ: vào thời thượng cổ của loài người, có các tôn giáo như Phật Giáo với Đức Phật Thích Ca; Lão Giáo với Đức Lão Tử; Nho Giáo với Đức Khổng Tử; Thiên Chúa Giáo với Đức Giê-su Kitô,... Phổ độ Nhị kỳ này do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trì Linh Sơn Hội.
Tam kỳ Phổ độ: vào thời kỳ hiện nay có Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ, một tôn giáo đặc biệt vì lần này do Đấng Thượng đế đích thân khai đạo, làm giáo chủ và trực tiếp dạy bảo để cứu vớt hết thảy loài người trên trái đất này trước khi xảy ra cuộc Tận thế chuyển lập đời Thánh đức. Phổ độ Tam kỳ này do Đức Phật Di Lạc Vương chủ trì Long Hoa Hội.
3.3. Phương diện giáo lý
Đạo Cao Đài đặt căn bản giáo lý của tôn giáo mình trên nguồn cội của giáo lý và triết lý của các tôn giáo lớn là Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo, gọi là Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo có chung một gốc), để đưa năm nhánh trở lại làm một, gọi là Ngũ chi Phục nhất. Ngũ Chi này gồm:
- Nhân đạo (Khổng Giáo);
- Thần đạo (Khương Thái Công, thờ phụng chư thần);
- Thánh đạo (Thiên Chúa giáo);
- Tiên đạo (Lão giáo);
- Phật đạo (Phật giáo).
3.3.1. Quan niệm về vũ trụ
Vũ trụ này có hai phần: Phần Vô hình không trông thấy được nhưng nó điều khiển toàn bộ phần Hữu hình trông thấy được; và Phần Hữu hình gồm 3.000 thế giới, 72 quả địa cầu mà quả địa cầu chúng ta đang sống là địa cầu số 68. Điều này lý giải vì sao kiến trúc bên trong Tòa thánh Cao Đài lại được thiết kế với 3.072 vì sao (72 quả địa cầu và 3.000 thế giới).
3.3.2. Quan niệm về nhân sinh
Con người sống dưới trần gian có ba thể:
- Thể xác (hữu hình);
- Linh hồn (vô hình);
- Chơn thần (bán hữu hình, làm trung gian cho Thể xác và Linh hồn).
Con người sống trên cõi thiêng liêng (vô hình) thì có hai thể:
- Linh hồn;
- Chơn thần (xác thân thiêng liêng).
Khi chết, con người sẽ trở về 2 dạng: Linh hồn và Chân thần sẽ bay lên cõi thiêng liêng, ở đó, trình diện với Đức Chí tôn và Phật Mẫu. Tùy vào phúc và tội đã gây ra nơi trần gian, Linh hồn và Chân thần sẽ được xét khen thưởng hay bị bắt đi đầu thai kiếp khác để trở lại trần gian sống mà trả dần nghiệp quả.
Khi Linh hồn và Chân thần hoàn thành được những việc hoàn toàn tốt đẹp nơi cõi trần, thì khi trở về cõi Thiêng liêng, sẽ khen thưởng xứng đáng và được gặp gỡ cùng Đức Chí tôn.
3.3.3. Tu tập
Về mặt thực hành, đạo Cao Đài chọn lọc ít nhiều trong số những quy định của:
- Phật giáo (như Giới luật Ăn chay, Ngũ giới cấm, Thiền định);
- Lão giáo (như luyện Tam bảo: Tinh, Khí, Thần);
- Nho Giáo (như Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức);
- Thiên Chúa giáo (như tôn thờ Chúa Giê-Su)
Giáo lý của đạo Cao Đài tổng kết những chánh niệm của các tôn giáo, làm thành Năm nguyên tắc chung (theo nhận xét của học giả Toan Ánh (1916-2009) trong cuốn Tín ngưỡng Việt Nam, quyển Thượng):
- Về thông linh: Con người phải tu tập, đạt tới sự tịnh tâm để khám phá chân lý, làm sáng tỏ và củng cố Chân thần cùng thông linh với nguyên khí của vũ trụ, cũng là của Đức Ngọc hoàng Thượng đế.
- Về tâm linh: Đạo Cao Đài xác nhận sự tin tưởng vào tính cách tồn tại vĩnh viễn của linh hồn con người. Linh hồn ấy có thể biến chuyển và chịu sự luân hồi tùy vào nghiệp quả các hành động của mình lúc sinh thời, cho tới khi toàn hảo và nhập làm một vào Đấng Chí tôn.
- Về thờ phụng: Con người phải tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn, người cha hiền của tất cả, đồng thời phải thờ kính Thần, Thánh, Tiên, Phật vì chư vị ấy họp thành một hệ thống thiêng liêng mầu nhiệm. Con người có thể thờ cúng tổ tiên, nhưng không được cúng mặn và không được dùng vàng mã.
- Về luân lý: Mọi người phải giữ đúng bổn phận đối với bản thân, gia đình, xã hội như một hình thức nới rộng của gia đình. Sau cùng, đối với toàn thể loài người như một đại gia đình.
- Về triết lý: Con người nên từ bỏ danh vọng, tiền tài và không nên sống xa hoa. Tóm lại, con người nên tự mình vượt thoát khỏi những ham muốn vật chất để tìm kiếm sự thanh thản tâm hồn và thanh khiết linh hồn.
Đạo Cao Đài đòi buộc tín đồ phải ăn chay. Tín đồ ăn chay được chia làm hai hạng: Hạ thừa; và Thượng thừa. Hạng Hạ thừa gồm tín đồ mới nhập môn. Sáu tháng đầu ăn chay mỗi tháng sáu ngày; kể từ tháng thứ bảy trở đi, ăn chay mỗi tháng mười ngày. Hạng Thượng thừa thì ăn chay suốt (thường trực), gọi là trường trai.
3.3.4. Giữ ngũ giới
Tín đồ nhờ ăn chay có thể giữ được tâm hồn thanh tịnh, tránh thất tình, lục dục.
Thất tình (bảy loại tình cảm):
- Hỷ: vui mừng
- Nộ: giận dữ
- Ai: buồn bã
- Lạc: vui vẻ
- Ái: yêu thương
- Ố: ghét
- Dục: ham muốn
Lục dục (sáu ham muốn):
- Sắc dục
- Thính dục
- Hương dục
- Vị dục
- Xúc dục
- Pháp dục
Người ăn chay dễ giữ ngũ giới, vì:
- Tránh được sát sinh trong sự ăn uống. (Giới thứ nhất: Bất sát sinh)
- Không ăn thịt thì cũng dễ bỏ rượu. (Giới thứ hai: Bất tửu nhục)
- Không ăn thịt và uống rượu thì ham muốn lắng xuống, nên không nghĩ tới việc tà dâm. (Giới thứ ba: Bất tà dâm)
- Ít lòng tham lam vật chất. (Giới thứ tư: Bất du đạo)
- Tâm hồn dễ trở nên thanh cao, tránh được việc nói dối lường gạt người. (Giới thứ năm: Bất vọng ngữ).
Tam Bửu thiền tịnh
Luyện Tam Bảo (Bửu) gồm: Tinh, Khí, Thần, ba cái tốt đẹp của con người. Tinh là chất tinh túy của xác thân; Khí là khí chất bổ dưỡng theo máu, luân lưu nuôi dưỡng cơ thể; Thần là trí não, sự sáng suốt hiểu biết. Thiền định, còn gọi là Thuyền định, nghĩa là đặt mình trong trạng thái tĩnh lặng, để được giải thoát hoàn toàn và giác ngộ viên mãn.
3.4. Biểu tượng Đạo Cao Đài
Thiên Nhãn là hình ảnh thờ phụng tượng trưng cho Ngọc hoàng Thượng đế Đấng Chí tôn. Thiên Nhãn luôn được đặt nơi cao, trang nghiêm.
3.5. Các vị Thần được thờ Đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài thờ các vị như Phật Thích Ca, Chúa Jesus, Khổng Tử, Lão Tử, Phật Bà Quan Âm,...
4. Hoạt động văn hóa lễ hội tại Tòa thánh Cao Đài
Hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài hành lễ bốn lần, gọi là cúng tứ thời, vào: giờ Tí – 24 giờ nửa đêm; giờ Mão (6 giờ sáng); giờ Ngọ (12 giờ trưa); và giờ Dậu (6 giờ chiều). Việc hành lễ hằng ngày cũng là phương pháp hàm dưỡng tâm tính cho bản thân mình và gia đình. Thân nhân của tín hữu Cao Đài còn tụ họp để đọc kinh nguyện trong các dịp thờ phụng tổ tiên, lễ lạc của gia đình và giỗ húy nhật (ngày giỗ kỵ cúng cơm).
Mỗi tháng, vào ngày Mùng một đầu tháng (sóc) và ngày Rằm trăng tròn (vọng), các tín hữu phải tề tựu tới thánh thất để làm lễ, dưới sự chủ lễ của một chức sắc. Ngoài ra còn có những ngày đại lễ, cũng như những dịp hôn phối, lễ nhập đạo của dâu rể hoặc con cái.
Lễ vật dâng cúng trong những buổi hành lễ rất đơn sơ, chủ yếu là hoa, rượu và trà, tượng trưng cho Tinh, Khí và Thần. Sáng sớm và buổi chiều cúng dâng nước trà, trưa và đêm thì dâng rượu lễ chưng cất bằng trái nho. Những ngày sóc và vọng hay đại lễ, kỵ giỗ, thì có thêm phần cúng lễ bằng hoa quả.
Trong lúc thờ phụng các tín hữu đọc kinh hoặc hát thánh ca theo trong sách đã soạn sẵn cho từng dịp lễ. Về nhạc lễ, các thể điệu được dùng trong đạo Cao Đài phần nhiều rất giống bài bản thường dùng trong lễ nhạc dân gian miền nam Việt Nam với bát âm và các nhạc cụ dân tộc như trống, chiêng, mõ, đàn, kèn, tiêu, thiều,...
5. Những điều nên lưu ý khi đến Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh
Trang phục và cử chỉ
Đến những cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, du khách nên mặc trang phục lịch sự, trang nhã, hạn chế nói chuyện riêng hoặc nói lớn tiếng, tắt chuông điện thoại,... để giữ không khí tôn nghiêm cho Tòa thánh và các nghi thức.
Cửa vào
Tín đồ và du khách đều phải để giày dép ở ngoài và vào bằng cửa bên hông Tòa thánh. Nam đi cửa bên phải, nữ vào cửa bên trái.
Cửa vào dành cho nam giới
Chụp hình
Khách không được vào Khu chính điện thờ Thiên Nhãn tham quan, chụp hình mà chỉ nhìn chính điện từ hai bên.
Thời gian tham quan
Nên đi vào giữa trưa (khoảng 12 giờ), vì thường sẽ diễn ra lễ vào thời gian này, du khách sẽ hiểu hơn về nghi thức của Đạo Cao Đài.
Bài viết này đã cung cấp thông tin sơ lược về Tòa thánh Cao Đài, Đạo và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng các thông tin liên quan, để hiểu hơn về Tòa thánh, bạn có thể đến tham quan trực tiếp để có cảm nhận và trải nghiệm thực tế nhé.
(Lưu ý: Bài viết có tham khảo nhiều nguồn thông tin).
Các trải nghiệm độc lạ ở Tây Ninh:

Bí mật Tòa thánh Tây Ninh
- Viếng thăm một kỳ quan kiến trúc của Việt Nam và là một công trình đáng kinh ngạc của châu Á!
- Khám phá những công trình trọng điểm và đẹp nhất trong Vùng Đất Thánh và giải mã những bí ẩn sau mỗi vật thể.
- Tìm hiểu vì sao đạo Cao Đài - một tôn giáo xuất phát từ Việt Nam lại có thể thu hút đến hàng triệu tín đồ trên khắp thế giới.
- Cảm nhận những nguồn năng lượng tích cực bên trong Tòa Thánh và nạp đầy năng lượng cho bản thân.

Truy tìm báu vật núi Bà Đen
- Viếng thăm quần thể các chùa linh thiêng nhất núi Bà Đen.
- Thử thách thể lực khi phải leo qua hàng trăm bậc thang để chiêm bái các chùa.
- Thưởng ngoạn phong cảnh tuyệt đẹp của Tây Ninh từ trên cao.
- Tìm hiểu về quá trình hình thành, lịch sử và văn hóa của vùng đất này.